ĐỖ PHỦ
Khúc Giang Nhị Thủ - Kỳ nhất
Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần
Giang thượng tiểu đường sào phỉ thúy
Uyển biên cao trủng ngọa kỳ lân
Tế suy vật lý tu hành lạc
Hà dụng phù danh bạn thử thân
Đỗ Phủ
Khúc Giang - Bài Một
1-
Một cánh hoa tàn Xuân kém tươi
Lòng buồn vời vợi, gió chơi vơi
Hoa xuân thấp thoáng, tình vương mắt
Hồn ngỡ bâng khuâng, rượu thấm người
Chim thúy ven sông, xây tổ ấm
Tượng lân bên mộ, đứng trông trời
Vui chơi là thú, trên muôn sự
Há để phù danh gậm nhấm đời
2-
Hoa tàn, xuân kém xanh tươi
Gió mênh mang thổi, lòng chơi vơi buồn
Nhìn hoa, ánh mắt sầu vương
Mềm môi cạn chén, xót thương nỗi lòng
Chim về xây tổ ven sông
Tượng lân bên mộ, đứng trông nhìn trời
Xóa buồn đi, cứ vui chơi
Bận tâm danh ảo, thì đời mất vui !
Hải Đà
Khúc Giang Nhị Thủ - Kỳ nhị
Triều hồi nhật nhật điển xuân y
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm kiến
Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi
Đỗ Phủ
Khúc Giang -Bài Hai
1-
Bãi triều, nao nức đón vui xuân
Bí tỉ đầu sông đến cuối ngàn
Quán rượu lân la, đâu kể xiết
Bảy mươi tuổi thọ, mấy người hơn
Vờn hoa bướm lượn, lung linh sắc
Giỡn nước chuồn bay, cánh chập chờn
Cảnh đẹp, đôi lời ta nhắn nhủ
Cứ vui cho tận, kẻo xuân tàn
2-
Tan chầu, nao nức đón xuân
Đầu sông say khướt, chiều tàn mới thôi
Rượu nầy vay nợ đủ nơi
Bảy mươi sống thọ, mấy người gặp may
Đùa hoa, lũ bướm vờn bay
Chuồn chuồn chấm nước, cánh dài chao nghiêng
Cảnh trời thay đổi thường xuyên
Dại chi không hưởng mà quên muộn phiền
Hải Đà
Khúc Giang Trị Vũ
Thành thượng xuân vân phú uyển tường
Giang đình vãn sắc tĩnh niên phương
Lâm hoa trước vũ yên chi lạc
Thủy hạnh khiên phong thúy đới trường
Long vũ tân quân thâm trú liễn
Phù dung biệt điện mạn phần hương
Hà thì thiệu thử kim tiền hội
Tạm túy giai nhân cẩm sắt bàng
Đỗ Phủ
Mưa Trên Sông Khúc
1-
Mây trôi lơ lửng nhẹ quanh vườn
Chiều quán bên sông bát ngát hương
Mưa đẫm hoa rừng, trôi phấn mỏng
Gió lay bèo nước, giạt muôn phương
Đoàn quân ngự giá trang nghiêm đứng
Hương khói cung đình nghi ngút xông
Lễ hội xuân vàng sao chẳng đến
Thôi mời người đẹp, hát, say cùng
2-
Mây xuân nhè nhẹ quanh vườn
Ven sông đình quán tỏa hương ngát lừng
Mưa trôi phấn mỏng hoa rừng
Gió đưa bèo nước lưng chừng trên sông
Đoàn quân ngự giá đứng trông
Cung đình điện ngọc hương xông ngút ngàn
Chờ chi lễ hội kim tiền
Thôi cùng người đẹp, rượu, đàn, say sưa
Hải Đà
Giang Mai
Mai nhị lạp tiền phá
Mai hoa niên hậu đa
Tuyệt tri xuân ý hảo
Tối nại khách sầu hà
Tuyết thụ nguyên đồng sắc
Giang phong diệc tự ba
Cố viên bất khả kiến
Vu tụ uất ta nga !
Đỗ Phủ
Mai Bên Sông
Tháng chạp mai hé nụ
Sang năm nở đầy hoa
Biết rằng ý xuân đẹp
Sao khách vẫn sầu a
Cây chung màu tuyết trắng
Gió vờn sóng sông xa
Vườn cũ tìm đâu thấy
Núi Vu cây rườm rà
Hải Đà
Đề Trương Thị Ẩn Cư Nhị Thủ
1-
Xuân sơn vô bạn độc tương cầu
Phạt mộc tranh tranh sơn cánh u
Giản đạo dư hàn lịch vĩnh tuyết
Thạch môn tà đạo đáo lâm khâu
Bất tham dạ thức kim ngân khí
Viễn hại triêu khan mê lộc du
Thứa hứng yểu nhiên mê xuất xứ
Đối quân nghi thị phiếm hư chu
2-
Chi tử thì tương kiến
Yêu nhân vãn hứng lưu
Tế đàm chiên phát phát
Xuân thảo lộc ao ao
Đỗ tửu thiên lao khuyến
Trương lê bất ngoại cầu
Tiền thôn sơn lộ hiểm
Qui túy mỗi vô ưu
Đỗ Phủ
Thơ Đề Nơi Ẩn của Họ Trương, hai bài
1-
Núi xuân thiếu bạn, chỉ mình ta
Cây đẵn trời im vọng tiếng ra
Suối lạnh đường khe sương tuyết phủ
Rừng sâu cửa đá ánh dương tà
Bạc vàng chẳng muốn, dù đêm thấy
Nai hoẵng đi rồi họa tránh xa
Thích chí đà quên nơi chốn ở
Trước bạn mà sao tưởng dưới đò
2-
Vừa khi gặp được bạn
Giữ tôi lúc chiều hoang
Cá nhẩy bờ đạch đạch
Bụi cỏ hươu oang oang
Bạn mời tôi chén rượu
Trái lê sẵn bên đàng
Xóm kia đường hiểm hóc
Say về, chẳng hoang mang
Hải Đà
Tuyệt Cú 11
Trì nhật giang sơn lệ
Xuân phong hoa thảo hương
Nê dung phi nhạn tử
Sa noãn thụy uyên ương
Đỗ Phủ
Bài Tuyệt Cú 11
1-
Ngày êm sông núi đẹp
Gió xuân ngát cỏ hoa
Nhạn bay đồng ruộng chói
Chim ngủ bờ nước xa
2-
Ngày êm sông núi đẹp xinh
Gió xuân ngan ngát thơm tình cỏ hoa
Đồng tươi sáng, nhạn vút qua
Chim uyên bãi ấm sa đà ngủ quên
Hải Đà
Tuyệt Cú 12
Giang bích điểu du bạch
Sơn thanh hoa dục nhiên
Kim xuân khan hựu quá
Hà nhật thị qui niên ?
Đỗ Phủ
Bài tuyệt cú 12
1-
Sông xanh chim càng trắng
Núi biếc rực rỡ hoa
Xuân qua ta lại thấy
Hôm nao mới về nhà ?
2-
Sông xanh càng trắng chim trời
Núi cao biếc thắm rạng ngời đỏ hoa
Thấy rằng năm hết xuân qua
Hôm nao mới được về nhà thăm quê ?
Hải Đà
Tuyệt Cú 13
Nhãn kiến khách sầu, sầu bất tỉnh
Vô lại xuân sắc đáo giang đình
Tức khiển hoa khai thâm tạo xứ
Tiện giác oanh ngữ thái đinh ninh
Đỗ Phủ
Bài Tuyệt Cú 13
Mắt thấy khách sầu, sầu khó dứt
Sông kia xuân đã đến bên đình
Khiến hoa đua nở trời thăm thẳm
Rộn tiếng oanh ca thắm thiết tình
Hải Đà
Xuân Túc Tả Tỉnh
Hoa âm dịch viên mộ
Thu thu xái điểu qua
Tinh lâm vạn hộ động
Nguyệt bảng cửu tiêu đa
Bất tầm thính kim thược
Nhân phong tưởng ngọc kha
Minh triêu hữu phong sự
Sổ vấn dạ như hà ?
Đỗ Phủ
Đêm Xuân Ngủ Tả Tỉnh
Sau tường hoa ẩn náu
Lảnh lót chim hót ca
Muôn nhà sao chiếu tỏ
Trời mây tỏa trăng ngà
Thao thức nghe tiếng khóa
Gió vờn tưởng nhạc xa
Ngày mai vào triều tấu
Hỏi thăm chuyện đêm qua ?
Hải Đà
Xuân Vọng
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thì hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hỏa liên tam nguyệt
Gia thư để vạn kim
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trâm
Đỗ Phủ
Ngắm Xuân
1-
Mất nước, còn sông núi
Cây cỏ mọc thành xuân
Thương tình hoa tủi lệ
Biệt ly chim bần thần
Ba tháng tràn khói lửa
Thư nhà giá vô vàn
Tóc bạc ngày thêm ngắn
Cài trâm ắt phân vân
2-
Nước mất nhưng còn giải núi sông
Thành xuân cây cỏ mọc xanh đồng
Thương thời hoa xót tuôn dòng lệ
Giận biệt chim lo sợ thốn lòng
Ba tháng triền miên trong khói lửa
Bao ngày thư đợi giá vô song
Phơ phơ tóc bạc vò thêm ngắn
Trâm cài tóc búi khó mà xong
Hải Đà
Xuân Nhật Ức Lý Bạch
Bạch dã thi vô địch
Phiêu nhiên tứ bất quần
Thanh tân Dữu khai phủ
Tuấn dật Bão tham quân
Vị Bắc xuân thiên thụ
Giang Đông nhật mộ vân
Hà thì nhất tôn tửu
Trùng dữ tế luân văn
Đỗ Phủ
Ngày Xuân Nhớ Lý Bạch
Thơ ai hơn Lý Bạch
Ý tứ hay xuất thần
Mát tươi như khai phủ
Tài cao tựa tham quân
Vị Bắc cây xuân ngát
Giang Đông mây chiều gần
Bao giờ chia chung rượu
Nâng chén luận thi văn
Hải Đà
Xuân Dạ Hỉ Vũ
Hảo vũ tri thì tiết
Đương xuân nãi phát sinh
Tùy phong tiềm nhập dạ
Nhuận vật tế vô thanh
Dã kính vân câu hắc
Giang thuyền hỏa độc minh
Hiểu khan hồng thấp xứ
Hoa trọng Cẩm Quan thành
Đỗ Phủ
Đêm Xuân Mừng Mưa
1-
Trời đẹp, mưa vừa đến
Đang xuân thánh thót rơi
Vào đêm nương cánh gió
Êm đềm mát muôn nơi
Đường quê đầy mây phủ
Lửa sáng giữa thuyền trôi
Sớm mai vùng đất đỏ
Cẩm Thành hoa nở tươi
2-
Mưa lành đến giữa trời thanh
Đang xuân thánh thót trên cành nhẹ rơi
Vào đêm theo gió chơi vơi
Lặng yên muôn vật mát tươi vô cùng
Đường quê mây phủ chập chùng
Thuyền trôi ánh lửa bập bùng trên sông
Sớm mai vùng đất đỏ hồng
Cẩm Thành đua nở đầy bông ngát trời
Hải Đà
Yến Tử Lai Chu Trung Tác
Hồ-nam vi khách động kinh xuân
Yến tử hàm nê lưỡng độ tân
Cựu nhập cố viên thường thức chủ
Như kim đỗ nhật viễn khan nhân
Khả lân xứ xứ sào cư thất
Hà dị phiêu phiêu thác thử thân
Tạm ngữ thuyền tường hoàn khởi khứ
Xuyên hoa thiếp thủy ích triêm cân
Đỗ Phủ
Bài Làm Khi Chim Én Bay Vào Thuyền
Nấn ná Hồ Nam trải mấy xuân
Bùn đen chim én ngậm hai lần
Chủ nhân vườn cũ chim quen lối
Viễn khách ngày lành bước đến thăm
Vất vả thương chim tìm chỗ trú
Long đong xót lão gửi thân tàn
Buồm cao lần lữa chim nương náu
Thuyền lẫn trong hoa nước đẫm khăn
Hải Đà