Nguyễn Phi Khanh- nhà thơ trữ tình nhân đạo
(trích trang nhà Bình Thuận-Các Danh Nhân)
Trong văn học thời Trần- Hồ, Nguyễn Phi Khanh là tác giả xuất sắc đại diện cho dòng thơ trữ tình và nhân đạo, nói nhiều đến nhân dân với tấm lòng ưu ái nhất.
Nguyễn Phi Khanh sinh khoảng năm 1355 và mất khoảng năm 1428, thọ 73 tuổi.
Ông tên thật là ứng Long, hiệu Nhị Khê, dòng dõi Nguyễn Bặc thời Đinh. Nguyễn Phi Khanh lấy con gái quan Tư đồ Trần Nguyên Đán là bà Trần Thị Thái. Nguyễn Trãi là một trong số các con của ông, bà. Ông đỗ tiến sĩ năm 1374, triều Trần Duệ Tông, nhưng không được bổ dụng làm quan. Khi nhà Hồ lên, Nguyễn ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh, được Hồ Quý Ly dùng làm Học sĩ ở Viện Hàn lâm kiêm chức Tư nghiệp trường Quốc Tử giám, rồi thăng Trung thư thị lang. Năm 1407, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ thất bại, Nguyễn Phi Khanh cùng nhiều người khác bị bắt đưa về Trung Quốc, ông mất tại Trung Quốc.
Tác phẩm của Nguyễn Phi Khanh, ngoài Nhị Khê thi tập, Nguyễn Phi Khanh thi văn còn có Thanh Hư động ký viết năm 1384, ca ngợi Trần Nguyên Đán, là áng văn rất nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam. Thơ ông phản ánh khá rõ hoàn cảnh xã hội đương thời đầy biến động, loạn lạc, dân tình khổ sở vì phải chạy giặc, vì thiên tai, mất mùa... Đồng thời, thơ Nguyễn Phi Khanh cũng ghi lại khá chân thật số phận vất vả, lận đận của ông, một người có đức, có tài, song vào thời kỳ đang sung sức nhất thì không được trọng dụng; khi được dùng, được có điều kiện mang tài năng giúp đời thì tuổi đã già và vương triều ông phục vụ bị tan vỡ, vua, tôi đều bị bắt lưu đày biệt xứ.
Trong các nhà thơ thời Trần- Hồ, Nguyễn Phi Khanh có lẽ là người đã thể hiện được trong thơ cái tôi trữ tình một cách sâu sắc, day dứt nhất.
Đó là nỗi đau của một trái tim bất lực giữa cuộc đời tao loạn, không ổn định mà ở đấy nhà thơ chỉ là người lữ khách phiêu bạt với bao nổi buồn về thế đạo:
Khách buồn tỉnh giấc nằm ôm gối
Lòng nghĩ ngồi im đốt nén hương
Sân trước quét sầu trông lá rụng
Bên trời lệ nhỏ đếm chim hồng...
(Cảm xúc buổi sớm thu)
Bên cạnh những dòng thơ giải bày nỗi buồn tâm thế, Nguyễn Phi Khanh đã dành nhiều tình cảm thắm thiết để viết về bạn bè, về quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, người bố vợ có ảnh hưởng rất lớn đối với tư tưởng, tình cảm của ông và nhất là viết về người dân lao động, tầng lớp cùng khổ của xã hội mà ông thường có dịp sống gần gũi với tất cả sự cảm thông, sự chia sẻ, thấu hiểu đến ngọn nguồn những bất hạnh họ phải chịu đựng:
Ruộng lúa nghìn dặm đỏ như lửa cháy
Khắp đồng quê tiếng kêu than không biết dựa vào đâu.
Núi sông của thần đất khô nứt nẻ
Mưa móc của trời còn xa lắc
Lưới tham quan lại vơ vét cạn kiệt...
Và Nguyễn Phi Khanh cũng biểu lộ nỗi thương cảm vô hạn đối với những người nghéo khổ mà ông xem như ruột thịt:
Xót thương cho muôn dân đều là đồng bào của ta,
Trong các mái nhà ai chen chúc kia khuôn mặt nào cũng cóng lạnh
Nguyễn Phi Khanh là nhà thơ sử dụng điêu luyện thể thơ Đường luật với phong cách của một đại gia. Những câu thơ đầy phong vị Đường thi như:
Hứng hết muốn vào tăng viện ngủ
Chuông chùa trước núi giục trăng treo.
Nguyễn Phi Khanh thường hay nhắc tới Đào Tiềm, Tạ Linh Vận, Lý Bạch, nhưng hình như Đỗ Phủ là nhà thơ Nguyễn Phi Khanh yêu thích và chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với Nguyễn Phi Khanh, về cả tư tưởng lẫn thái độ nhân sinh, vẫn là Trần Nguyên Đán. Và Nguyễn Phi Khanh lại là thi gia để một dấu ấn rất rõ nơi tâm hồn Nguyễn Trãi con ông.
Thu Nhật Hiểu Khởi Hữu Cảm
Tàn mộng đông đông tỉnh hiểu chung
Nhật hàm thu ảnh xạ song lung
Khách hoài ủng chẩm y miên hậu
Tâm sự phần hương ngột tọa trung
Đình ngoại tảo sầu khan lạc diệp
Thiên biên cách lệ sổ chinh hồng
Ô hô thế đạo hà như ngã
Tam phủ di biên phú Đại Đông *
Nguyễn Phi Khanh
(* thơ trong kinh Thi, ý nói thời nhiễu nhương)
Ngày Thu Thức Dậy Cảm Tác
Tỉnh mộng hồi chuông sớm vọng vang
Bên song lấp lánh bóng thu vàng
Bàng hoàng ôm gối lòng u uất
Quạnh quẽ châm hương dạ xốn xang
Lá rụng thềm hoang sầu lắng đọng
Chim bay trời thẳm lệ tuôn tràn
Xót xa thế sự, buồn thân phận
Vịnh khúc bi ca luống bẽ bàng
Hải Đà phỏng dịch
Thu Thành Vãn Vọng
Mộc lạc đô thành cửu nguyệt thiên
Tà dương trạo địa tiệt vân yên
Ly hồng viễn viễn nghênh phong trận
Khích nguyệt quyên quyên cách thụ huyền
Ngâm hứng tứ thời thu dị cảm
Nhân sinh vạn sự lão kham liên
Binh qua huống phục điêu tàn hậu
Dao vọng tình mân nhất khái nhiên
Nguyễn Phi Khanh
Chiều Thu Trong Thành Tưởng Nhớ
Thành đô tháng chín lá tàn bay
Chiều xế chìm tan bóng khói mây
Nương gió xa bay mờ cánh nhạn
Nguyệt lồng khoe dáng đứng hàng cây
Bốn mùa thu cảm thời ngâm vịnh
Muôn sự đời lo luống tuổi đầy
Binh lửa qua đi còn đổ nát
Trời tươi lặng ngắm cảnh hồn say
Hải Đà phỏng dịch