Tiếng Đàn Trên Sông
Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị
Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị (Phần 3)
Tranh: Thu Huệ
Tiếng đàn Tỳ Bà đã tạo nên những âm thanh huyền diệu, ăm ắp nhạc tính, tràn trề nhịp điệu trong một một số thi ca Việt Nam . Bài Tỳ Bà của Bích Khê, lời thơ dạt dào chất nhạc, thơ là nhạc, nhạc là thơ. Bài thơ đầy thanh bằng đã tạo nên những nhịp rung êm ái nhẹ nhàng du dương làm chùng lòng người nghe . Hàn Mạc Tử đã nhận định về thơ Bích Khê : “ Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu …” . Cái huyền diệu đó đã làm tuôn trào những cảm xúc lãng mạn xao xuyến, đã mỹ hóa những ngôn từ tha thiết , chất ngất thanh âm quyến rũ, chất thơ ướt đẫm nhạc qua những tiếng tỳ bà rung nhẹ đã “gây đê mê” , làm người “chơi vơi” , cho tình “du dương” , cho hồn “phiêu diêu”, giữa một khung trời “thu mênh mông” chất ngất, mơ hồ và huyền ảo và lúc đó không còn phân biệt hư thực, mà chỉ còn biết : “ Cây đàn yêu đương làm bằng thơ , Cây đàn yêu đương run trong mơ …” và tiếng đàn du dương theo bàn tay êm ái của màn đêm đang giăng mềm trên muôn phím tơ vàng …
Tỳ Bà (Bích Khê )
Nàng ơi ! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi ! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi ! vàng rơi: Thu mênh mông
Bích Khê
Trong bài thơ thi vị chan chứa nhạc điệu một cách đặc biệt mà người đọc khi đọc lên có cảm giác lành lạnh xen lấn vào tận xương tủy, phải nói đến bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu . Bài thơ đã tạo nên những làn sóng âm thanh rung động muôn chiều, những tiết tấu nghệ thuật mỹ cảm đa dạng, đã truyền đạt quyến rũ dẫn dắt người nghe lâng lâng đi vào quỹ đạo vô hình , xa vời hiện thực, ở đó lấp lánh lung linh sáng chói những vì sao siêu linh biểu tượng hồn nhạc trầm buồn man mác trong những vần thơ hoài cảm xao xuyến , thấm thía khi lặng yên “Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê “
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân …
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình,
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi !
Long lanh tiếng hận vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người .
Bốn bề ánh nhạc, biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
(Xuân Diệu 1944 – Nguyệt Cầm )
Mường tượng đến tiếng đàn xưa, nghĩ đến cái tâm tình hoàn cảnh éo le của người kỳ nữ trên bến nước Tầm Dương đã tạo nên mối cảm hoài bâng khuâng, cho người thơ liên tưởng đến cái buồn ray rức tiếc nuối , một cái buồn rười rượi, một cảm giác khắc khoải nao lòng, để người thơ phải trở gối thao thức suốt đêm trường lúc nào không hay :
Nghe Hát (Vũ Hoàng Chương
Phách ngọt, đàn say, nệm khói êm
Tiếng ca buồn nổi giữa chừng đêm
”Canh khuya đưa khách …” . Lời reo ngọc .
Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm
Ai lạ nghìn thu, xa tám cõi ,
Sen vàng như động phía châu liêm
Nao nao khói biếc hài thương nữ ;
Trở gối, hoa lê rụng trắng thềm .
Vũ Hoàng Chương (Thơ Say)
Âm nhạc và nhịp điệu man mác tình tứ, chan chứa những giọng điệu buồn bã thương cảm và lưu luyến của người kỹ nữ trên bến sông Tầm Giang . Giọng điệu thơ chan hòa màu sắc tha thiết, mong mỏi tìm sự chia sẻ, cảm thông một nỗi buồn sâu thẳm từ một khung trời dĩ vãng xa xăm nào đó, khi nỗi nhớ gọi về …
Nguyệt chẳng phải tỳ không càng không cầm với sắt
Đầy nhớ thương tha thiết gọi ta về
(Tối Tân Hôn – Vũ Hoàng Chương)
Tiếng đàn trên sông trong đêm khuya khoắt, ôi não nùng làm sao … nỉ non, đê mê, nức nở.. Đó là “tiếng ngậm-ngùi muôn thủa của thời-gian”, âm vang còn rơi rớt đọng lại như nhắc nhở “Thiên tình sử não nùng xưa” . Người thơ đã có những cảm giác vướng víu, phân vân, trống trải, cô đơn, lạnh lẽo trong hoài niệm bâng khuâng về một thoáng tình đã trôi qua, sự đợi chờ mòn mỏi vô định … Phải chăng nhà thơ có con tim cùng chung nhịp điệu với người kỹ nữ trên bến Tầm Dương ….
Đàn Nguyệt (Thế Lữ )
(Trên sông Hương một đêm trăng)
Lòng ta hỡi! Thôi đừng lên tiếng nữa!
Lặng mà nghe đờn nẩy khúc sầu thương.
Ngón tay rung, rung động cả đêm sương.
Khiến trăng nước đắm mơ hồ ly-biệt,
Khiến trong gió ngưng đọng niềm thống-thiết
Của bao nhiêu người đẹp khát tình duyên
Ôm nhớ nhung còn nức nở bên đèn.
Đêm khuya vắng thêm gợi thời xa vắng,
Tiếng bi-ai như vẽ hình cay đắng
Của chia-phôi, cùng thương tiếc đợi chờ
Trong bao thiên tình sử não nùng xưa.
Thấy chăng ai? trên sông khuya im sóng
Bâng-khuâng trôi một con thuyền mơ mộng,
Thuyền lênh đênh gieo giữa cõi sương tan
Tiếng ngậm-ngùi muôn thủa của thời-gian.
Biết chăng ai? bao nhiêu điều cực-khổ
Với bao nỗi hờn oan trong vũ-trụ
Cùng hẹn-hò thu lại một đêm nay,
Đương nỉ non thánh thót ở trên giây,
Theo ngón đê-mê của bàn tay nghệ-sĩ.
Thuốc độc êm đềm, ôi! giọng đàn kiều-mị,
Bởi vì đâu gieo xuống mãi lòng ta
Những giọt nồng tê-tái vị say xưa?
Hàn Mạc Tử cũng đã có lần đi thuyền trên sông trăng , và cũng đã được nghe một tiếng đàn ai oán của một người ca nữ nào đó và cũng có lẽ cũng đã thăm hỏi … Câu hỏi sững sờ của Hàn Mạc Tử cũng là câu trả lời đơn giản nói lên cái tâm trạng chua xót của người mang kiếp cầm ca trên bến sông .. trong cơn mê hay tỉnh, nào ai hay biết, chỉ biết trầm mình vào những phím đàn nỉ non tê tái cho thân phận mình , để tìm quên , mê mệt trong “Mười khúc đoạn trường say chửa tỉnh ..”
Đàn Nguyệt (Hàn Mặc Tử )
Hỏi chơ mấy tuổi? Đáp mười lăm
Non nước từng phen nổi tiếng tăm
Bạc mạng đàn chơi đau nửa kiếp
Đồng tâm tơ buộc chặt quanh năm
Chường mình trước án trông đầy đặn
Nép mặt trông hoa nói thỉ thầm
Mười khúc đoạn trường say chửa tỉnh
Thuyền ai thấp thỏm muốn ôm cầm.
Chàng Tư Mã Giang Châu đã gặp người kỹ nữ như là tri âm tri kỷ, như Tử Kỳ-Bá Nha “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vẫn mãi là giai thoại đẹp muôn đời . ”Một đêm đàn lạnh trên sông Huế . Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh” .. một vạt áo xanh đã đẫm ướt không phải vì sương lạnh hay những giọt mưa đêm lất phất, mà chính là những giọt lệ sầu tê tái muôn thuở .. Hình ảnh của người kỹ nữ trên sông có thể chỉ là một ẩn dụ, mà cây đàn là biểu tượng để nói lên tiếng lòng của người thơ .. “Này em hát khúc tương tư nhé “ …”Sao đàn u hoài gì mùa thu ? “ Người thơ đã sống thực của đời thường hay đã đắm chìm trong cõi mộng ảo lúc nào chẳng hay, để mà âm thầm luyến tiếc những giây phút thơ mộng một thời yêu dấu đã đi vào dĩ vãng ..
Văn Cao là một nhạc sĩ thì khỏi phải nói những ý nghĩ và tứ thơ của ông phong phú, tràn trề nhạc tính, và man mác không gian Đường Thi …“Tà tà trăng lặn hiu hiu gió …Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi …Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương “ … làm người đọc liên tưởng đến một bến sông thu ở Phong Kiều Dạ Bạc “ Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ, Cầu phong đốm lửa giấc sầu mơ …” mà thay vì tiếng chuông làm sững sờ khách thơ, mà lại là tiếng đàn lạnh trên sông Huế làm ngơ ngẩn thuyền khách … quyến luyến một chút gì hoa lệ vàng son đã khuất xa … chỉ còn là bóng sao mờ dần.. “Em cạn lời thôi anh dứt nhạc …Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh …” . Con thuyền ấy đã đưa khách về đâu ? đã chở tiếng đàn ấy về đâu ? phải chăng về một khung trời vạn cổ xa xăm nào đó …
Một Đêm Đàn Lạnh Trên Sông Huế (Văn Cao )
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
Này em hát khúc tương tư nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền bỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương
Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương
Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Văn Cao
Cái tâm trạng của người kỹ nữ với chiếc đàn tỳ bà trên bến nước Tầm Dương có lẽ cũng ngậm ngùi đau đớn, chua xót không kém gì cô gái mang kiếp cầm ca trong bài thơ “Lời Kỹ Nữ “ của Xuân Diệu . Cái nội tâm dày vò, dằn vặt, thương xót và tủi nghẹn cho cái thân phận không may mắn trong cuộc đời thật là lớn lao .. ”Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn (XD) . Cái tuyệt vọng của cô đơn, cái nỗi chán chường xót xa, càng thấm thía buốt nhói như “Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da” (XD) … Và khi lời ca, âm nhạc, tiếng đàn chấm dứt , khi những hình ảnh chập chờn xa dần của “ Trăng từ viễn xứ .. đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn “ .. cũng là lúc mắt lệ rưng rưng , lòng buồn vời vợi, nỗi cô đơn trống vắng, tê điếng rụng rời, chan hòa với cái lạnh giá lan tỏa của vầng trăng mộng mị, trên sóng nước chập chùng trôi xa về một bến bờ triền miên vô định :
"Xao xác tiếng gà . Trăng ngà lạnh buốt
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi – Du khách đã đi rồi … “
Lời Kỹ Nữ (Xuân Diệu)
Thử xem Bạch Cư Dị đã diễn tả tiếng đàn như thế nào? một cách say sưa, có ma lực ám ảnh trí tưởng tượng và chiếm lĩnh trái tim của người đọc dù chưa nghe qua tiếng đàn . Tiếng đàn đã thay đổi theo từng biến chuyển từng giây từng phút, lúc thì như tiếng mưa tỉ tê thánh thót làm lòng người muốn tê tái ủ rũ, lúc thì ào ào như suối đổ, chung hưởng cái ngây ngất mừng reo vui sướng, lúc não nùng réo rắt như vỡ tuôn dòng nước, lúc thì ân hận buồn bực vỡ oà lên khi tiếng tơ lạnh ngắt, và đủ âm thanh cung bực đẫn dắt người nghe giao động bồi hồi hoang mang lạc lẫm từ cảm giác nầy qua cảm giác khác khó lòng mà gỡ rối tìm đường ra …
“Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lựa, lưạ vào bốn dây”
Phan Huy Vịnh dịch
Tiếng đàn đã chấm dứt, nhưng Bạch Cư Dị đã dùng đôi mắt nghệ sĩ tinh tế của mình từ khung cảnh thiên nhiên mênh mông vô tận để chắt lọc những nét chấm phá thủy mạc tiêu biểu nhất hầu ghi nhận lại những âm thanh huyền diệu lắng đọng hình như còn lãng đãng rơi rớt đâu đây :
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
(Thuyền bè đông tây lặng im không một tiếng nói
Thấy giữa lòng sông một vầng trăng thu vằng vặc)
Bàn về tiếng đàn trong truyện Kiều , Nguyễn Du đã dùng những ý tưởng sinh động và gợi cảm của bài Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn để miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều khi hội ngộ cùng Kim Trọng , nhưng tiếng đàn ở đây không ảo não ai oán thê thiết như người kỹ nữ trên bến Tầm Dương, nhưng ta thấy những tiếng đàn mà Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe không thấm đượm vẽ lâm ly, ai oán não nùng vì đây là nỗi mừng vui của hội ngộ đoàn viên với người tình xưa Kim Trọng . Tưởng cũng nên nhắc lại “cẩm sắt” thường được dịch là đàn gấm hay đàn sắt, là loại đàn lớn, làm bằng gỗ cây ngô đồng có chạm trổ. Tiếng đàn của Thúy Kiều biểu lộ sự sung sướng, thỏa mãn như “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”, “ấm sao hạt ngọc” … nhưng tại sao lại có sự đối chọi “tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao “… Phải chăng Nguyễn Du muốn ám chỉ : “ vui là vui gượng kẻo là”
” Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông !
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao .”
Nguyễn Du (Truyện Kiều)